Một số lưu ý về chữ ký điện tử

Theo Bộ luật dân sự, Luật giao dịch điện tử và Nghị định số 26/2007/NĐ-CP:

1. Về hình thức giao dịch dân sự

Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

2. Về giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu

Thông điệp dữ liệu có giá trị như văn bản, có giá trị như bản gốc và có giá trị làm chứng cứ.

3. Về chữ ký điện tử

"Chữ ký điện tử được tạo lập dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh hoặc các hình thức khác bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách lô gíc với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó đối với nội dung thông điệp dữ liệu được ký." (Luật giao dịch điện tử)

Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký điện tử theo quy định.

Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được đóng dấu của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký điện tử theo quy định và chữ ký điện tử đó có chứng thực.

4. Về chữ ký số

Chữ ký số là một dạng chữ ký điện tử. Chữ ký số được chứng thực bởi tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số.

Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần có chữ ký thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bằng chữ ký số.

Trong trường hợp pháp luật quy định văn bản cần được đóng dấu của cơ quan, tổ chức thì yêu cầu đó đối với một thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng nếu thông điệp dữ liệu đó được ký bởi chữ ký số của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức, và chữ ký số được tạo ra trong thời gian chứng thư số có hiệu lực.

Chứng thư số cấp cho người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức phải nêu rõ chức danh của người đó.

Như vậy:

−  Chữ ký số là chữ ký điện tử và được chứng thực;

−  Một thông điệp dữ liệu được ký bằng chữ ký số có giá trị như văn bản được ký;

−  Một thông điệp dữ liệu được ký bởi chữ ký số của người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức theo quy định có giá trị như văn bản được ký và đóng dấu;

−  Chữ ký số mà doanh nghiệp thường sử dụng trong ký nộp tờ khai thuế, hải quan điện tử không xác định được chức danh người ký, không được xem là đáp ứng đủ điều kiện để thông điệp dữ liệu được ký có giá trị như văn bản được ký và đóng dấu.

Trường hợp tổ chức, doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng chữ ký số đáp ứng điều kiện theo quy định để thông điệp dữ liệu được ký có giá trị như văn bản được ký và đóng dấu, Luật 68 sẽ tư vấn miễn phí hoặc liên hệ để cấp chữ ký số cho tổ chức, doanh nghiệp.

Luật 68